Bả dột


Bả dột, Bả dột là gì, công dụng của Bả dột, cách sử dụng Bả dột

THÔNG TIN CHI TIẾT

Tên tiếng việt: Bả dột, Ba dót, Cà Dót

Tên khoa học: Eupatorium triplinerve Vahl

Họ: Cúc (Asteraceae)

Công dụng: chữa cảm sốt, rối loạn tiêu hoá, đau bụng.

 

 

Bả dột 1

 Bả dột

1. Mô tả:

  • Cây thảo, mọc thành bụi dày, cao 40 – 50cm. Thân tròn nhẵn, màu đỏ nhạt hoặc đỏ tía. Lá mọc đối ở phía gốc và so le ở gần ngọn, hình mác, gốc thuôn do phiến lá men theo cuống, đầu nhọn, dài 6 – 8cm, rộng 10 – 12mm, mép nguyên, gân giữa to, hai gân bên xuất phát từ gốc, hai mặt nhẵn; lá vò ra có mùi thơm nhẹ.
  • Cụm hoa mọc ở kẽ lá hoặc gần ngọn thành ngù mang nhiều đầu nhỏ, hoa màu hồng; tổng bao có 2 – 3 hàng lá bắc hình chỉ, mỗi đầu có 15 – 20 hoa; tràng hình ống, có thùy tam giác; bao phấn không có tai, mào lông dài bằng tràng.
  • Quả bế nhẵn, có 5 khía và tận cùng bằng một mào lông trắng dễ rụng.
  • Mùa hoa quả: Tháng 10-12

2. Phân biệt :

Tránh nhầm lẫn với cây mần tưới (Eupatorium fortunei Turcz) có lá răng cưa và không có 2 gân bên ở gốc lá (xem Mần tưới).

3. Phân bố, sinh thái:

  • Eupatorium L. là một chi lớn, gồm các loại cây thân thảo, bụi, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới châu Mỹ, một số loài ở châu Phi và châu Á. Ở Việt Nam, có khoảng 10 loài thuộc chi này, trong đó có cây bả dột, vốn có nguồn gốc từ châu Mỹ, có tài liệu cho rằng, nó được nhập vào Việt Nam từ lâu, sau trở lên hoang dại hóa (Võ Văn Chi, 1997). Cây cũng được nhập trồng vào Ấn Độ và Trung Quốc.
  • Bả dột là cây ưa ẩm, ưa sáng đồng thời cũng có thể chịu được bóng trong điều kiện trồng ở vườn. Cây sinh trưởng tốt trong điều kiện nhiệt đới nóng và ẩm. Từ một nhánh con và cành trồng ban đầu, sau một năm đã thành một bụi lớn. Cây đẻ nhánh rất khoẻ, phần gốc được chừa lại sau khi cắt sẽ tiếp tục tái sinh. Bả dột ra hoa quả nhiều hàng năm. Hiện nay chưa rõ về khả năng nhân giống bằng hạt.

4. Bộ phận dùng:

5. Thành phần hóa học:

  • Lá bả dột chứa 1,00 – 1,14% tinh dầu với thành phần chính là thymohydroquinon dimethyl ether (The Wealth of India III, 1952).
  • Phần trên mặt đất của cây bả dột chứa tinh dầu với các thành phần: α-pinen 0,10%, β-pinen 0,20%, α-phelandren vết, α-terpinen 0,20%, 1,8-cineol 0,20%, camphor 0,10%, terpinen-4-ol, methylthymol 0,30%, methylcarvacrol 0,20%, β-elemen 1,20%, thymohydroquinon dimethylether 73,60%, β-caryophylen 8,90%, α-humulen 0,40%, β-selinen 0,10%, selina-4, 11-dien 11,00%, α-selinen 0,50%, caryophylen oxyd 0,40% (Nguyễn Xuân Dũng và cộng sự, 1991).
  • Phần tan trong nước chứa ayapanin, ayapin, coumarin, thymohydroquinon dimethyl-ether, thymoquinon và methyl thymylether (Nguyễn Thị Diễm Trang và cộng sự, 1993)
  • Ngoài ra, lá chứa caroten 2.200 g/100g và vitamin C 25mg/100g (The Wealth of India III, 1952).

6. Tác dụng dược lý:

  • Avapanin (7-methoxycoumarin) và ayapin (6:7 methylene dioxy-coumarin) có tác dụng cầm máu rõ rệt. Cả hai chất ayapanin và ayapin đều không độc và đều có tác dụng cả khi dùng tại chỗ cũng như uống hoặc tiêm dưới da. Các chất đó không có tác dụng với hô hấp và huyết áp.
  • Dịch hãm từ cây bả dột có lác dụng làm ra mồ hôi và gây nôn. Ở Philippin, nước sắc lá khô bả dột và dịch ép từ lá tươi dùng làm thuốc rửa sạch vết thương và những vết loét hôi thối, ở Ấn Độ, nước sắc từ lá là một thuốc cầm máu dùng trong nhân dân, áp dụng cho các trường hợp chảy máu khác nhau.
  • Cao chiết bằng nước của lá bả dột có tác dụng kích thích tim, tăng cường sức co bóp của tim và giảm nhịp đập.

7. Tính vị, công năng:

Theo y học cổ truyền, bả dột có vị đắng, hơi cay, mùi thơm. Có tác dụng làm ra mồ hôi, giải cảm sốt.

8. Công dụng:

  • Lá và cành khô có mùi thơm, nhân dân nhiều nước nhiệt đới dùng uống thay trà. Còn dùng chữa cảm sốt, rối loạn tiêu hoá, đau bụng. Để cầm máu, dùng nước sắc lá để uống hoặc giã nát lá tươi đắp tại chỗ. Chữa rối loạn kinh nguyệt thường phối hợp với các dược liệu khác.
  • Liều dùng: 15 – 30g sắc nước uống.

Bài thuốc có bả dột:

  1. Chữa cảm sốt, rối loạn tiêu hoá: Bả dột 20 – 30g sắc nước uống.
  2. Chữa kinh nguyệt không đều, rong kinh, đau bụng kinh: Bả dột phối hợp với mần tưới, mỗi thứ 20g sắc nước uống.