Sả


Sả, Sả là gì, công dụng của Sả, cách sử dụng Sả

THÔNG TIN CHI TIẾT

Tên tiếng Việt: Cỏ sả, Lá sả, Sả chanh, Hương mao.

Tên khoa học: Cymbopogon nardus Rendl (Sả), Cymbopogon flexuosus Stapf (Sả chanh).

Họ: Lúa Poaceae (Gramineae)

Công dụng: Giúp tiêu hóa, pha nước uống cho mát và tiêu, thông tiểu tiện, ra mồ hôi, chữa cảm sốt.

A. Mô tả cây 

  • Sả là loại cỏ sống lâu năm, mọc thành bụi, cao từ 0,8-1,5m hay hơn. Thân rễ trắng hay hơi tím. Lá hẹp, dài giống như lá lúa, mép hơi nháp. Cụm hoa gồm nhiều bông nhỏ không cuống. Toàn cây có mùi thơm đặc biệt mùi sả. Trồng làm thuốc, người ta ít phân biệt sả này với sả khác, nhưng khi trồng để cất tinh dầu người ta phân biệt sả ra hai nhóm có tinh dầu có giá trị khác hẳn nhau:
  • Nhóm sả cho tinh dầu với thành phần chủ yếu là Citronellal và genariola (citronnelle). Trong nhóm này có loài Cymbopogon winterianus, Cymbopogon nardus (L.) Rendl. (Andropogon nardus L.) có hàm lượng tinh dầu cao và chất lượng tốt nhất, sau đấy đến cây sả Cymbopogon confertiflorus Stapf cho ít tinh dầu hơn, chất lượng cũng kém hơn.
  • Nhóm sả cho tinh dầu với thành phần chủ yếu là xitraia (Lemon grass-Verveine des indes) làm tinh dầu có mùi chanh rất rõ. Đứng đầu nhóm sả này là sả Cymbopogon flexuosus Stapf. (Andropogon flexuosus Nees), sau đến loài Cymbopogon citratus Stapf, (Andropogon schoenanthus L.).
  • Ngoài hai nhóm này còn một số loài sả cho tinh dầu có thành phần khác hẳn mặc dầu về hình thái và giải phẫu rất khó phân biệt như loài sả Cymbopogon martinii (Roxb.) Wats, thì thứ motia cho tinh dầu gọi là essence Palma rosa hay Geranium des Indes chứa tới 75-95% geraniola, còn thứ Sofia lại cho một thứ tinh dầu không chứa geraniola mà lại chỉ có ancol perilic.

B. Phân bố, thu hái và chế biến

  • Cây sả được trồng ở khắp nước ta, nhưng diện tích trồng làm thuốc không nhiều, chỉ có tính chất gia đình và người ta chỉ dùng rễ hoặc toàn cây đào về dùng tươi hay phơi trong râm mát.
  • Nhưng diện tích trồng sả để cất tinh dầu lại rất lớn: Từ trước Cách mạng tháng 8, ở miền Bắc nước ta diên tích trổng ở đồn điền Sơn Cốt (Bắc Cạn) hằng năm cho khoảng 10 tấn tinh dầu. Từ ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc nước ta (1954) diện tích trồng sả để cất tinh dầu tăng dần tới hàng nghìn hecta, hằng năm cung cấp hằng trăm tấn tinh dầu dùng trong nước và xuất khẩu. Nhu cầu tinh dầu sả trên thế giới vào khoảng 3.000-4.000 tấn/năm. Những nước sản xuất nhiều tinh dầu sã nhất là Inđônêxya (nổi tiếng sả Giava), Xrilanca nổi tiếng với tên sả Xrilanca, sau đến Ấn Đô, Trung Quốc.

C.Thành phần hóa học

  • Nhân dân ta dùng rể và toàn cây tươi khô. Hoạt chất của sả như thế nào hiện chưa thấy tài liệu nghiên cứu. Chỉ mới biết trong sả có 1 đến 2% tinh dầu.
  • Tùy theo loài sả, thành phần của tinh dầu thay đổi và có giá trị khác nhau. Tinh dầu sả cất từ cây sả Cymbopogon nardus (L.) Rendl. (sả Xrilanca) và cây Cymbopogon winterianus Jowitt (sả Giava) có từ 20 đến 40% geraniola và citronellola, 40 đến 60% xitronellala. Loài thứ hai được trồng nhiều ở Giava, Đài Loan, Trung Mỹ (Guatemala), Ghinê, Mangat. Tinh dầu sả cất từ cây sả chanh Cymbopogon flexuosus và C. citratus chứa từ 70 đến 80% xitral. Loại sả chanh này đuợc trồng nhiều ở Ấn Độ, Mangat, đảo
  • Como, Trung Mỹ (Guatemala), Châu Phi (Côngô, Kênya). Tinh dầu sả cất từ loài Cymbopogon martinii var. motia chứa 15-95% geraniola còn var. Sofia chứa ancol perilic.

D. Công dụng và liều dùng 

  • Tinh dầu sả dùng làm thuốc giúp tiêu hóa. đuổi muỗi, còn dùng trong công nghiệp chất thơm, làm nước hoa, xà phòng thơm…
  • Lá sả dùng pha nước uống cho mát và tiêu. Củ sả có tác dụng thông tiểu tiện, ra mồ hôi, chữa cảm sốt.
  • Ngày dùng 15 đến 30g củ sả hay lá sả dưới dạng thuốc sắc hay nấu nước xông.