Vọng giang nam


Vọng giang nam, Vọng giang nam là gì, công dụng của Vọng giang nam, cách sử dụng Vọng giang nam

THÔNG TIN CHI TIẾT

Tên tiếng Việt: Cốt khí muồng, Dương giác đậu, Giang nam đậu, Muồng hòe (miền Nam), Muống lá giang nam đậu, Thạch quyết minh, Sơn lục đậu, Khế.

Tên khoa học: Senna occidentalis (L.) Link - Cassia occidentalis L.

Họ: Caesalpiniaceae

Công dụng: 

  • Dùng cả rễ và hạt, để làm thuốc chữa sốt, không tiêu.
  • Hạt vọng giang nam làm thuốc chữa đau bụng đi lỵ, táo bón, ăn uống không tiêu, đầu nhức mắt mờ. Lá tươi giã nát đắp lên các chỗ rắn độc cắn, cua tôm quắp bị thương.

Vọng giang nam 1

Hình ảnh cây Vọng Giang Nam

A. Mô tả cây 

  • Vọng giang nam là một cây nhỏ cao 0,60-1 m thân phía dưới hoá gỗ. Toàn thân nhẵn, không có lông. Lá mọc so le, kép lông chim chẵn, lá chét dài 4-9cm, mọc đối, hình trứng thuôn, không cuống, phiến lá lệch ở phía cuống, Toàn lá dài 20cm. Hoa ở kẽ lá hay đầu cành, màu vàng nhạt, mọc thành chùm.
  • Quả giáp, dài 6-10cm, rộng tới 7mm, hơi cong hình cung, giữa các hạt hẹp lại làm cho quả trông có dáng gồm rất nhiều đốt nối nhau. Hạt dẹt, hình trứng dài 4mm, rộng 3mm, xếp chồng lên nhau theo chiều dọc. vỏ cứng, nhẵn bóng. Mùa hoa tháng 7-9, mùa quả tháng 8-10. 
  • Cây mọc hoang tại khắp nơi ở Việt Nam. Còn mọc tại Trung Quốc

B. Phân bố, thu hái và chế biến 

  • Ở Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Phúc Kiến, Hà Bắc v.v… tại đây có nơi trồng để làm thuốc), Ấn Độ, Braxin (Nam Mỹ) cũng có. 
  • Người ta dùng toàn bộ cây, hay chỉ hái lá, hái hạt về phơi khô. Ở Việt Nam ta chưa chú ý khai thác loài này. 

C. Thành phần hoá học 

Trong hạt, Heckel đã nghiên cứu thấy: Độ ẩm 8,855%, chất béo và chất màu tan trong clorofoe 1,150%, chất béo và chất màu tan trong ête dầu hoả 1,60%, chất màu và ít tanin 5,022%, glucoza 0,738%, chất pectin, gôm, chất nhầy 15,734%, chất anbuminoit tan 6,536%, chất anbuminoit không tan 2,216%. 

Theo Lưu Mễ Đạt Phu (1955), trong vọng giang nam có chất antraglucozit gọi là emođin, tanin, chừng 36% chất nhầy, 2,55% chất béo, 4,33% tro. 

Trong lá cũng có chất emođin, hợp chất hydrat cacbon và flavonozit như vitexin. 

Toàn cây có tanin, chất béo và chất nhầy. 

Trong hạt có physcion C16H12O5 (J. Am. Pharm. Assoc., 1957, 46, 271; c. A. 1969, 70, 84918m) physcion-1-glucozit, C22H22O10 (Experientiơ, 1971, 43), l,8-dihydroxy-2-metylanthraquinon, 1,4,5- trihydroxy-3-metyl-7-metoxy anthraquinon (.Experientia 1974, 30, 850), N-metylmorpholin (C.A, 1971, 74, 50512s) galactomannan (J. chem. 1973, 11, 1134). 

Trong rễ có cassiollin C17H12O6, chrysophanol C15H10O4, xanthorin, 1,4,5-trihydroxy-2 metoxy – 7methylanthraquinon,C16H12O6. islandixin -1,4,5 trihydroxy-2- metylanthraquinon C15H10P5 1,4,5,- trihydroxy -7 metylanthraquinon helminthosporin C15H10O5 (Indian J. Chem., 1974, 12, 1042) 

Trong lá có dianthronic heterozit (C. A., (969, 70, 84918m). Trong vỏ quả có C-glucozit của apigenin (C. A., 1969, 70, 84918m). 

D. Công dụng và liều dùng 

Nói chung cây này thấy ít được dùng ở Việt Nam làm thuốc. Tuy nhiên chúng tôi đã có dịp thấy tại Lạng Sơn một vị đông y dùng nó với tên thảo quyết minh, dùng cả rễ và hạt, để làm thuốc chữa sốt, không tiêu.

Tại Trung Quốc người ta dùng hạt vọng giang nam uống làm thuốc chữa đau bụng đi lỵ, táo bón, ăn uống không tiêu, đầu nhức mắt mờ. Lá tươi giã nát đắp lên các chỗ rắn độc cắn, cua tôm quắp bị thương. Ngày dùng 10-20g dưới dạng thuốc sắc. 

Vọng giang nam không chỉ được dùng ở các nước châu Á, mà còn được dùng ở các nước khác. 

Theo E. Perrot, hạt Cassia ocidentalis tươi có độc do một chất toxanbumin (phytotoxin) và cryzarobin (chrysarobin) là một antraglucozit. Khi rang lên hạt sẽ hết độc và được dùng ở châu Phi uống nước thay cà phê gọi là cà phê của người da đen, mùi thơm dễ chịu. Nếu dùng tươi thì có đệ Thực tế trong năm 1913 ở ngoại ô Paris (thủ đô nước Pháp) đã xảy ra những vụ ngộ độc ngựa ( cho ăn hạt này lẫn với yến mạch (avoine). Năm 1924 lại xảy ra vụ ngộ độc nữa cũng do cho ngựa ăn hạt không rang. Khi bị ngộ độc thì viêm ruột, viêm màng não. Những chất độc khi rang lên sẽ phá huỷ cho nên rang lên mới dùng được. 

Một số tác giả châu Âu khác (Deliouxc Savignac, Dubonnex v.v…) đã nghiên cứu tác dụng chữa bệnh của hạt vọng giang nam mọc ở các nơi khác đã xác nhận hạt này có tác dụng chữa sốt, điều kinh. Tại các nuớc châu Phi, người ta dùng lá, rễ và hạt.