Cây Sâm bố chính


Cây Sâm bố chính, Cây Sâm bố chính là gì, công dụng của Cây Sâm bố chính, cách sử dụng Cây Sâm bố chính

THÔNG TIN CHI TIẾT

Tên tiếng Việt: Sâm thổ hào, Sâm báo, Nhân sâm Phú Yên

Tên khoa học: Abelmoschus sagiitifolius (Kurz) Merr. - Hibiscus sagittifolius Kurz, Hibiscus abelmoschus L.

Họ: họ Bông (Malvaceae)

Công dụng: Chữa các chứng ho, sốt nóng, trong người khô, táo, khát nước, gầy còm.

 

 

 

 

 

A. Mô tả cây 

  • Sâm bố chính là một loại cây thuộc thảo sống dai, mọc đứng một cách yếu ớt, có khi dựa vào các cây xung quanh, cao chừng 1m hay hơn. Rễ mầm màu trắng nhạt hay vàng nhạt, có đường kính 1,5-2cm, nhiều rễ có hình người trông rất giống nhân sâm, có lẽ vì thế người xưa bắt đầu dùng nhầm rồi thấy tốt mà dùng mãi và lưu truyền về sau chăng?
  • Lá ở phía gốc cây hình trái xoan, phần cuối phiến lá hình tim hay hình mũi tên, đầu phiến lá không nhọn. Các lá ở phía ngọn càng lên trên càng hẹp, có khi phiến lá chia thuỳ với thuỳ giữa dài hơn, có khi phiến lá chia thuỳ trông như mũi tên. Lá dài 6-7cm, rộng 30mm. Mặt lá có lông đơn hay hình sao, lá kèn hình sợi chỉ dài 7mm có ít lông dài.
  • Hoa màu hồng hay đỏ, phớt vàng, mọc đơn độc ở kẽ lá, đường kính tới 8cm. Cuống hoa dài 5-8cm, có lông cứng, hơi phồng đầu. Tiểu đài cấu tạo bởi 7-10 bộ phận, dài 12-14mm, có lông tua tủa, đài hoa hình túi, ở ngọn có vài răng nhỏ, đài rách ra và rụng sớm, 5 cánh hoa dài 5-6cm, rộng 3-4cm ở ngọn. Nhiều nhị hàn liền với nhau thành một cột. Bao phấn phủ cột đỏ đến tận gốc. Bầu có lông, 5 vòi, có tuyến.
  • Quả hình trứng nhọn, dài gấp 3 lần tiểu đài, ngoài mặt có lông, khi chín, quả nứt thành 5 mảnh vỏ, mặt trong và mặt ngoài đều có lông. Hạt hình thận, màu nâu, ngoài mặt có những đường vân rất sít nhau thành những gợn hay ụ màu vàng .

B. Phân bố, thu hái và chế biến 

  • Sâm bố chính mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi ở Việt Nam. Miền Bắc có nhiều nhất ở các vùng núi huyện Nam Đàn, Thanh Chương, Hương Sơn (Nghệ An, Hà Tĩnh). Một vài địa phương thuộc Quảng Bình, Hoà Bình và Tây Bắc.
  • Rễ sâm bố chính đào vào các tháng 11-12 và tháng 1-2. Hiệu suất trung bình 6 tấn/1ha.
  • Đào rễ về, có nhiều cách chế biến khác nhau:
    1. Có nơi đào rễ về, cắt bỏ thân ở trên, cạo sạch vỏ ngoài, ngâm nước vo gạo một đêm, vớt ra để khô nước đồ cho chín rồi phơi nắng hoặc sấy cho thật khô.
    2. Có nơi đào rễ về cắt bỏ thân cạo sạch vỏ ngoài, ngày phơi đêm sấy cho thật khô.
    3. Cũng có nơi đào rễ về, cắt bỏ thân và rễ con, rửa sạch ngâm vào nước phèn chua hai ngày hai đêm (cứ 10 kg rể dùng 300g phèn chua tán nhỏ, hoà tan vào nước lã). Rửa sạch phơi nắng hay sấy khô.
    4. Có người cầu kỳ lại ngâm thêm nước gừng, gấc và đường cho thêm màu đỏ, vị cay và vị ngọt nhưng không cần thiết. Trong sâm bố chính chúng tôi đã nghiên cứu thấy có rất nhiều tinh bột và tới 35-40% chất nhầy (Đỗ Tất Lợi, Vũ Văn Chuyên, Trương Vinh, Tài liệu học tập dược, tập 1-1961).

C. Thành phần hóa học

Chất nhầy, nhiều tinh bột, asparagin, đường sacaroza

D. Công dụng và liều dùng 

  • Sâm bố chính phối hợp với các vị thuốc khác để chữa các chứng ho, sốt nóng, trong người khô, táo, khát nước, gầy còm.
  • Một số các ông lang cho rằng sâm bố chính là một vị thuốc bổ, thông tiểu tiện, điều kinh, chữa sốt, bệnh phổi và bạch đới.
  • Liều lượng chưa xác định, thường dùng với liều 6-12g hay hơn.

Chú thích: 

  • Tuy mang tên sâm vì vị thuốc có hình dạng giống người như nhân sâm, nhưng không nên nhầm với nhân sâm.
  • Qua thành phần hoá học và công dụng sâm bố chính trong nhân dân, chúng tôi thấy có nhiều điểm giống vị thuốc Radix Athaeae-là rễ cây Aithaea officinilis L. thuộc cùng họ Bông Malvaceae.

Vài đơn thuốc có rễ Althaea có thể áp dụng đối với sâm bố chính: 

  • Đơn 1: Thuốc pha rễ Althaea 6g trong 180g nước, xirô cam thảo 200g.

Người lớn cách 2 giờ uống 1 thìa to.

  • Đơn 2: Thuốc pha rễ Althaea 2g trong 100ml, xirô Althaea 30g.

Trẻ con 2 tuổi ngày dùng 4-5 lần, mỗi lần 1 thìa nhỏ.