Găng trâu


Găng trâu, Găng trâu là gì, công dụng của Găng trâu, cách sử dụng Găng trâu

THÔNG TIN CHI TIẾT

Tên tiếng Việt: Găng trâu, Găng bọt, Găng tu hú, Găng gáo, Găng ổi, Thanh dương tử, Mạy nghiên pa (Tày), Giằng ghim pẹ (Dao)

Tên khoa học: Randia spinosa (Thunb.) Poir.

Họ: Rubiaceae.

Công dụng: Chữa mụn nhọt, lở loét, đau xương, đau tai, lậu (Quả bỏ hạt đốt tồn tính tán bột rắc, uống). Thuốc gây nôn, an thần thông tiểu (Rễ, lá). Vỏ rễ sắc nước uống để điều kinh.

 

A. Mô tả cây: 

  • Cây nhỡ hay cây gỗ nhỏ cao tới 8m, rất phân nhánh, có gai to, nhọn, dài 5-15mm. Lá mọc đối nhưng thường mọc tụ tập rất sít nhau, phiến hình bầu dục, gốc thuôn, đầu tù hoặc hơi nhọn, dài 2,5-7cm, rộng 1,5 – 3cm, mép nguyên nhăn nheo, hai mặt nhẵn hoặc hơi có lông ở mặt dưới, mặt trên bóng; lá kèm sớm rụng, cuối rất ngắn.
  • Hoa mọc riêng lẻ ở kẽ lá, màu vàng; đài 5, nhẵn hoặc hơi có lông; tràng 5 cánh rộng, ống tràng rất ngắn, nhị đính ở họng tràng; bầu 2 ô.
  • Quả dạng quả mọng, hình cầu hay hình trứng, đường kính 2,5-5cm, nhẵn, mang các lá đài đồng trưởng, màu vàng. Hạt nhiều, đen, chìm trong nạc của quả.
  • Hoa tháng 3-9, quả tháng 3-11.

B. Phân bố, sinh thái:

  • Cây mọc ở khắp vùng Viễn đông nhiệt đới và Ðông Phi châu nhiệt đới. Phổ biến khắp nước ta, thường trồng làm hàng rào vì cây có nhiều gai.
  • Găng trâu là loại cây bụi gai ưa sáng và chịu hạn tốt, thường mọc trong các trảng cây bụi ở đồi, đất sau nương rẫy. Cây có thể phát triển được trên nhiều loại đất, kể cả nơi đã bị bào mòn nhiều, trơ tầng đá ong cằn cỗi. Bộ rễ khoẻ của cây có thể dài hơn 1m. Cây rụng lá vào mùa đông. Ra hoa quả nhiều hàng năm; tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt. Ở vùng núi, người ta thường trồng găng trâu vào bờ rào để bảo vệ nương rẫy.

C. Bộ phận dùng:

Quả, rễ và vỏ cây. Quả thu hái vào mùa thu, đông, dùng tươi. Rễ và vỏ thu hái quanh năm, dùng tươi hay phơi khô dùng dần.

D. Thành phần hoá học:

Từ bột rễ, đã chiết được scopolatin, cơm quả chứa saponin trung tính và acid, tinh dầu và acid nhựa. Quả khô chứa một lượng nhỏ saponin kết tinh gọi là ursosaponin. Còn có b-sitosterol và một triterpen mới.

E. Tính vị, công năng:

Quả làm kích thích gây nôn. Cơm quả cầm lỵ, trừ giun, gây sẩy thai. Vỏ quả làm săn da. Vỏ cây se, có tác dụng bổ và lợi tiêu hoá. Nước chiết vỏ rễ có tác dụng diệt trùng.

F. Công dụng:

  • Lá thường dùng làm thạch (Sương sâm). Rễ nghiền ra dùng duốc cá. Vỏ rễ và thân hãm uống để điều kinh. Quả dùng nhuộm vàng, lại dùng ngâm lấy nước trừ giun đất và đỉa. Cũng dùng chữa mụn nhọt lở loét (lấy quả Găng bổ đôi, bỏ hạt cho vôi vào, lấy đất sét bọc ngoài, đốt tồn tính. Bỏ đất, tán quả thành bột rắc chung quanh vết loét).
  • Ở Ấn Độ, quả xanh dùng để duốc cá. Cơm quả dùng trị lỵ và trừ giun, cũng dùng làm thuốc gây nôn. Ðem tán bột, đắp vào lưỡi và vòm khẩu cái trị sốt và đau ốm của trẻ em khi mọc răng. Vỏ dùng làm thuốc uống trong và cũng dùng đắp ngoài trị đau xương trong khi bị sốt; dùng ngoài đắp để giảm đau trong bệnh thấp khớp. Cũng dùng trị ỉa chảy và lỵ. Vỏ rễ cũng dùng uống trị đau bụng. Người ta cũng đập giập vỏ thả xuống nước để duốc cá.
  • Ở Trung Quốc, người ta gọi nó là Sơn thạch lựu. Rễ và quả được dùng trị đòn ngã và trừ phong thấp. Quả, rễ và vỏ cây được sử dụng làm thuốc, có thể dùng để gây nôn mửa. Lá giã lẫn với đường để đắp tiêu sưng đau, quả khi còn xanh có thể dùng duốc cá. Vỏ quả có thể đun nước rửa bệnh ngoài da. Dân gian thường lấy cành non và mầm giã nát đắp vào chỗ bị gai cắm vào, có thể lôi gai ra được.