Ruối leo


Ruối leo, Ruối leo là gì, công dụng của Ruối leo, cách sử dụng Ruối leo

THÔNG TIN CHI TIẾT

Tên tiếng Việt: Ruối leo, Duối leo

Tên khoa học: Trophis scandens (Lour.) Hook. et Arn. - Caturus scandens Lour.

Họ: Moraceae

Công dụng: Hậu sản, đái vàng, cảm, gây nôn (Lá).

1. Mô Tả
  • Cây leo, dài 8 m hay hơn, có nhựa mủ trắng.
  • Cành mảnh, màu nâu, có lỗ bì. Lá mọc so le, hình bầu dục dài hoặc trứng thuôn, dài 7-11 cm, rộng 3-4 cm, gốc tròn hoặc hơi hình tim, đầu có mũi nhọn, mép nguyên hoặc khía răng rất nhỏ, hai mặt nhẵn, mặt trên bóng, gân lá hình mạng nổi rất rõ ở mặt dưới; cuống lá có ít lông.
  • Cụm hoa mọc ỏ kẽ lá, đực và cái riêng; cụm hoa đực là đuôi sóc hơi có lông, lá bắc ngắn, hoa xếp dày đặc lông, đài 3 răng màu trắng nhạt, cánh hoa 0, nhị 3, bao phấn hình cầu, trung đới lồi lên thành tuyến; cụm hoa cái hình trứng có cuống, hoa hình cầu xêp lẫn với lá bắc, dài hợp, bầu hình cầu.
  • Quả phức, hình bầu dục hoặc hình tròn, dài 8mm, vỏ mỏng, dễ vỡ. Mùa hoa: tháng 6-9.

Phân bố, sinh thái

  • Chi Trophis Browne chỉ có một loài ruối leo ở Việt Nam. Cây phân bố rộng rãi ở vùng nhiệt đới Châu Á, Lào, Campuchia, Thái Lan, Indonesia, Philippin, Trung Quốc, New Caledoni, Nam Trung Quốc va Australia.
  • Ở Việt Nam, ruối leo phân bố rải rác khắp các tỉnh từ vùng núi có độ cao khoảng 600m đến vùng trung du và đồng bằng.
  • Cây chịu bóng và có thể hơi ưa sáng, thường mọc dựa hoặc leo trong các lùm bụi ở ven rừng thứ sinh, đồi, bờ nương rẫy và quanh làng bản.
  • Cây có lá xanh quanh năm, ra hoa vào mùa hè, hoa đực và hoa cái riêng, thụ phấn nhờ côn trùng, gieo giống tự nhiên chủ yếu từ hạt.
  • Ruối leo có khả năng tái sinh khỏe từ những phần còn lại sau khi bị chặt.

Bộ phận dùng

Lá.

Công dụng

Theo kinh nghiệm dân gian, lá ruối leo phơi khô, sao qua cho thơm, rồi sắc uống dùng cho phụ nữ sau khi đẻ bị suy nhược, mệt mỏi, kém ăn, ăn không tiêu.

Bài thuốc có ruối leo :

Chữa hen suyễn, bụng đầy chướng, đại tiện bí, sản hậu (Nam dược thần hiệu):

Lá ruối leo, rễ bướm bạc, mỗi vị 4g; củ gấu, chỉ xác, mỗi vị 3g (sao); hạt tía tô 2g (sao) ; trần bì ( bỏ màng trắng) 2g ; gừng sống 3 lát . Sắc uống làm một lần vào lúc sáng sớm.

Nguồn: Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam.